Ngay sau phần phát biểu khai mạc, Ủy ban Về các vấn đề xã hội đã cho ý kiến về việc tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi); việc chuẩn bị dự án Luật Công đoàn (sửa đổi) và đề xuất bổ sung vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020.
Trình bày các nội dung lớn về tiếp thu, chỉnh lý dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi), Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi cho biết, đến thời điểm này, dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) đã cơ bản thống nhất về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng. Theo đó, dự thảo Bộ luật mở rộng phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng với nhóm lao động không có quan hệ lao động về một số tiêu chuẩn, điều kiện lao động phù hợp nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và an sinh xã hội đối với người không có quan hệ lao động tại các quy định về đối tượng áp dụng (khoản 1, Điều 2), giải thích thuật ngữ “người lao động không có quan hệ lao động” (khoản 6, Điều 3), bổ sung chính sách và quản lý nhà nước về “thúc đẩy việc áp dụng các quy định của Bộ luật này đối với người lao động không có quan hệ lao động” (khoản 3, Điều 4 và khoản 4, Điều 212) và hiệu lực của Bộ luật (khoản 3, Điều 219).
Phiên họp toàn thể lần thứ 15 của Ủy ban Về các vấn đề xã hội. |
Việc mở rộng như vậy là sự cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, thích ứng với sự linh hoạt của thị trường lao động, thúc đẩy áp dụng các quy định của Bộ luật này đối với người lao động không có quan hệ lao động và góp phần dịch chuyển lao động từ khu vực không có quan hệ lao động sang khu vực có quan hệ lao động. Các chuyên gia của ILO đánh giá cao hướng tiếp thu, chỉnh lý này, cho đây là điểm tiến bộ của pháp luật về lao động của Việt Nam. Các thành viên Ủy ban Về các vấn đề xã hội bày tỏ nhất trí cao với việc mở rộng như dự thảo Bộ luật hiện nay.
Về mở rộng khung thỏa thuận thời giờ làm thêm tối đa, UBTVQH đã đề xuất hai phương án để xin ý kiến QH. Phương án 1, quy định theo hướng giữ khung thỏa thuận giờ làm thêm tối đa như Bộ luật hiện hành, nhưng nâng thời gian làm thêm giờ theo tháng, ghi rõ là 40 giờ/tháng thay vì 30 giờ/tháng và bổ sung quy định cụ thể về các trường hợp được tổ chức làm thêm giờ từ hơn 200 giờ đến 300 giờ như quy định trong dự thảo để người lao động biết, làm cơ sở cho việc giám sát tuân thủ. Phương án 2, nâng khung thỏa thuận giờ làm thêm tối đa từ 300 giờ theo quy định hiện hành lên 400 giờ trong một năm theo đề xuất của Chính phủ. Quy định theo phương án này đã không khống chế thời gian làm thêm giờ theo tháng, đồng thời, Chính phủ phải tiếp tục nghiên cứu các kiến nghị của đại biểu QH, chuẩn bị danh mục cụ thể các ngành, nghề được mở rộng khung làm thêm từ hơn 300 giờ đến 400 giờ, đánh giá tác động và bổ sung quy định trả lương lũy tiến làm thêm giờ kể từ giờ thứ 201 hoặc từ giờ thứ 301 trở đi và trình QH dự thảo Nghị định chi tiết.
Thảo luận về nội dung nâng khung thỏa thuận giờ làm thêm tối đa, đa số ý kiến nhất trí trình QH cả 2 phương án. Đồng thời, để bảo đảm sự bình đẳng về thời giờ làm việc giữa cán bộ, công chức, viên chức ở khu vực công với người lao động khu vực sản xuất, một số ý kiến cũng đề nghị nghiên cứu để quy định người lao động làm việc theo chế độ 44 giờ/tuần. Về vấn đề này, ông Bùi Sỹ Lợi cho biết, trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật vừa qua, UBTVQH đã yêu cầu Chính phủ bổ sung báo cáo tổng kết thi hành việc thực hiện quy định khuyến khích áp dụng chế độ làm việc không quá 8 giờ/ngày và 40 giờ/tuần của Bộ luật hiện hành. Tài liệu gửi bổ sung cho thấy, quan điểm của Cơ quan soạn thảo cũng như giới chủ, người sử dụng lao động chưa đồng thuận về việc quy định theo hướng giảm thời giờ làm việc bình thường. Mặt khác, UBTVQH cũng chưa đồng tình với việc mở rộng khung thỏa thuận giờ làm thêm tối đa như Chính phủ đề xuất nên trước mắt, dự thảo Bộ luật trình QH tại Kỳ họp thứ Tám sẽ vẫn giữ quy định về thời giờ làm việc bình thường như Bộ luật hiện hành.
Một số thành viên Ủy ban đồng tình với lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu nhưng lưu ý đây là vấn đề phức tạp và ở các nước khi đặt ra vấn đề này cũng thường tranh luận, phản ứng của người lao động, do đó, cần làm tốt công tác truyền thông để người lao động hiểu rõ về quyền và lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu đối với từng nhóm lao động để họ biết được bản thân mình, ngành mình sẽ nghỉ hưu như thế nào và kèm theo đó là những quyền lợi gì.